Lịch sử Họ Mai vàng

Họ Ochnaceae được Augustin Pyramus de Candolle dựng lên năm 1811.[11][12] Vào thời gian đó, ông mô tả Elvasia như là chi mới trong họ và gộp cùng 3 chi khác là Ochna, Walkera và Gomphia.[13] Walkera được Johann Christian Daniel von Schreber mô tả năm 1789, nhưng hiện không còn được công nhận nữa. Loài điển hình của nó là Gomphia serrata do Andrias Kanis đặt năm 1968,[14] nhưng hiện nay nó được đặt trong chi Ouratea. Gomphia trong một thời gian dài là nguồn gây lộn xộn[15] và nó không được công nhận trong phần lớn các sửa đổi gần đây đối với họ Ochnaceae.[4]

Godoya và Sauvagesia đã được biết đến từ trước năm 1811, khi de Candolle lập ra họ Ochnaceae, nhưng ông đặt chúng trong các họ khác. Trong Prodromus Systematis Naturalis Regni Vegetabilis, ông đặt Godoya trong họ sau này là Clusiaceae.[16] Ông coi Lauradia/Lavradia là tách biệt với Sauvagesia và đặt cả hai trong họ Violaceae. Ông bổ sung chi Castela vào Ochnaceae, nhưng hiện nay nó là một phần của họ Simaroubaceae.[17] De Candolle tin rằng Simaroubaceae có quan hệ họ hàng gần với Ochnaceae, nhưng hiện nay thì họ này xếp trong bộ Sapindales.[18] Một vài tác giả khác lại đặt Godoya, Sauvagesia và một vài chi khác trong họ Sauvagesiaceae cho tới tận đầu thế kỷ 21.[19] Các tác giả khác, như Adolf Engler, lại gộp chúng trong Ochnaceae.

Năm 1874, Engler chia Ochnaceae thành 2 nhóm dựa trên sự có/không có nội nhũ trong hạt thuần thục.[20] Nhóm không nội nhũ tương ứng với khái niệm Ochnaceae của de Candolle và tương ứng với tông Ochneae trong phân loại gần đây. Nhóm có nội nhũ hiện nay được biết là cận ngành và bao gồm các tông Testuleeae, Luxemburgieae và Sauvagesieae.

Năm 1876, trong Flora của Brasil, Engler mô tả nhiều loài mới trong Ochnaceae, đặc biệt là trong chi lớn nhất của nó là Ouratea.[21] Ông mô tả 85 loài trong Ouratea, 17 trong số đó được ông đặt là loài mới vào thời gian đó. Ông cũng chuyển 63 loài từ các chi khác sang Ouratea.

Các chi Quiina và Touroulia đã được biết đến từ năm 1775, khi chúng được Jean Baptiste Aublet mô tả,[22] và chúng được phân loại khác nhau bởi các nhà phân loại học thế kỷ 19. Jacques Denys Choisy dựng lên họ Quiinaceae (như là Quiinacées) cho chúng vào năm 1849,[23] nhưng ông không đảm bảo các yêu cầu cho việc công bố hợp lệ tên gọi thực vật. Tên gọi Quiinaceae được Engler hợp lệ hóa trong Flora Brasiliensis năm 1888.[12][24]

Chi Medusagyne được John Gilbert Baker mô tả năm 1877 trong hệ thực vật MauritiusSeychelles,[25] nhưng tới tận năm 1924 thì nó mới được tách riêng thành họ đơn chi của chính nó.[26]

Năm 1893, Ernest Friedrich Gilg bao hàm họ Ochnaceae và Adolf Engler bao hàm họ Quiinaceae cho ấn bản đầu tiên của Die Natürlichen Pflanzenfamilien (DNP).[27][28] Engler viết phần mô tả cho Medusagyne trong phần bổ trợ cho ấn bản lần 1 của Die Natürlichen Pflanzenfamilien năm 1897.[29] Ông đặt Medusagyne dưới tiêu đề "Zweifelhafte, möglicherweise zu den Guttiferae gehörige Gattung" (Đáng ngờ, có thể là chi thuộc về Guttiferae). Guttiferae là tên gọi lỗi thời của Clusiaceae.

Năm 1902, Philippe van Tieghem công nhận 6 họ trong cái mà hiện nay coi là phân họ Ochnoideae.[30] Chúng bao gồm Luxemburgiaceae, Sauvagesiaceae, Wallaceaceae, Euthemidaceae, Lophiraceae và Ochnaceae. Ba trong số này (Wallaceaceae, Euthemidaceae và Lophiraceae) là đơn chi và được van Tieghem dựng lên vào thời gian đó. Luxemburgiaceae của ông bao gồm các nhánh cơ sở của cái hiện nay coi là tông Sauvagesieae. Van Tieghem đặt một lượng lớn tên chi vào năm 1902 với giới hạn của chúng rất hẹp. Trong cái hiện nay là phân tông Ochninae, ông vạch ra tới 53 chi. Phần lớn các sửa đổi gần đây về các nhóm này chỉ phân chia chúng ra thành 6 chi.

Năm 1925 trong ấn bản lần 2 của Die Natürlichen Pflanzenfamilien, Engler và Gilg đã tương ứng mở rộng xử lý của họ cho Quiinaceae và Ochnaceae khi so với những gì họ đã viết năm 1893.[31][32] Medusagynaceae cũng được Adolf Engler và Hans Melchior bao hàm trong cùng quyển này của DNP.[33]

Trong ấn bản lần 2 của DNP, Engler công nhận 2 chi Quiina và Touroulia trong Quiinaceae. Lacunaria và Froesia được phát hiện và đặt tên muộn hơn, tương ứng vào các năm 1925 và 1948.

Trong cùng quyển này Gilg chia Ochnaceae của ông (tương ứng với Ochnoideae hiện nay) thành 21 chi, bao gồm các chi như Indovethia, Leitgebia, Vausagesia và Lauradia (như là Lavradia) mà hiện nay coi là đồng nghĩa của Sauvagesia.[4] Tám chi hiện tại công nhận (gồm Philacra, Krukoviella, Fleurydora, Tyleria, Adenarake, Indosinia, Perissocarpa và Idertia) bao gồm các loài thực vật chưa được biết đến vào thời gian đó. Gilg đặt Rhytidanthera như là đồng nghĩa của Godoya nhưng hiện nay thì Rhytidanthera lại được công nhận như là chi tách biệt. Ông gộp Campylospermum và Rhabdophyllum trong Gomphia và đặt Gomphia như là đồng nghĩa của Ouratea. Trong sửa đổi của mình về Ochnaceae, Gilg cung cấp một xem xét tổng quan về phân loại của van Tieghem cũng như về phân loại của chính ông.[32] Ba chi của van Tieghem (Campylospermum, Rhabdophyllum và Rhytidanthera) hiện nay vẫn được công nhận.[4]

Năm 1968, Andrias Kanis công bố một bài viết có ảnh hưởng lớn tới các công trình sau này về Ochnaceae, cho tới tận sửa đổi năm 2014.[14] Claude Henri Léon Sastre đặt tê cho nhiều loài trong Ochnaceae trong một số bài báo từ năm 1970 tới năm 2003.[3]

Năm 1991 một phân tích mô tả nhánh được công bố cho Ochnaceae.[34] Trong cùng năm này, Neckia, chi thứ 28 cho Ochnoideae, được phục hồi trong một nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử dựa vào 4 locus ADN lạp lụcITS ribosom nhân.[3] 79 loài Ochnaceae đã được lấy mẫu và phân loại mới đã được đưa ra. Bên cạnh đó, Testulea cũng được loại khỏi tông Sauvagesieae và đặt trong tông đơn chi Testuleeae.